
KBCHNTV – Bổ túc của KBCHNTV:
– Miền Bắc cũng gọi “Heo”, đó là Bún Bò giò Heo
– Miền Bắc cũng gọi “Heo”, đó là Bún Bò giò Heo
– Miền Bắc không gọi Cá Lợn mà gọi cũng là gọi là Cá Heo
1) Điểm khác nhau thứ nhất là con heo sinh ra ở miền Nam, con lợn sinh ra ở miền Bắc.
2) Điểm khác nhau thứ hai là con heo thì ăn bắp, con lợn thì ăn ngô nè.
3) Điểm khác nhau thứ ba là con heo thì da không làm bánh được còn con lợn làm bánh da lợn.
4) Điểm khác nhau thứ tư là con heo đóng phim người lớn, con lợn đóng phim thiếu nhi (phim Hiệp sĩ lợn).
Sau đây là một số điểm thú vị của con lợn và con heo:

1) Miền Bắc không có con heo nhưng lại thích “nói toạc móng heo” – Miền Nam không có con lợn nhưng làm được bánh da lợn.
2) Miền Bắc có lợn sề, lợn nái, lợn giống, lợn cấn, lợn sữa, lợn choai, lợn tháu, lợn ỷ, lợn rừng –
Miền Nam có heo nhà, heo ruộng, heo bông, heo lang, heo cỏ, heo bò, heo đen, heo nọc, heo hạch, heo nái, heo nưa, heo lứa, heo mọi, heo sữa, heo rừng.
3) Con lợn từ Miền Bắc xuống Miền Nam bị hóa kiếp thành con heo cũng có điển tích đàng hoàng :
Paulus Huỳnh Tịnh Của là một học giả người Miền Nam, trong Đại Nam Quốc Âm Tự Vị, ông đã giải nghĩa lợn là con heo, là giống lục súc béo hơn hết. Đúng như con lợn tự khoe : “Nội trong hàng lục súc với nhau, ai sánh đặng mình heo béo tốt ?” (Lục súc tranh công).
4) Đọc Việt sử, ta thấy người Miền Nam phần lớn là những di dân từ Miền Trung, tiếng nói của họ nặng, khi phải bẩm trình với quan lớn, họ lại phát âm thành “quan lợn”. Quan cho là vô phép nên sai lính lấy hèo phạt, ai bẩm “quan lợn” là phạt đòn 10 hèo ? Nhiều người bị phạt hèo như vậy, nên khi thấy con lợn họ hình dung ngay ra những cây hèo vụt vào mông họ, họ bèn mỉa mai gọi con lợn là “con hèo” rồi để khỏi lầm lẫn con lợn với cây gậy quái ác ấy, họ bớt đi dấu huyền, còn lại là con heo.
Ho Binh
Theo mạng Tiếng Việt giàu đẹp
SỰ KHÁC NHAU GIỮA HEO VÀ LỢN
Người ta vẫn thường hiểu rằng “lợn” là từ của người miền Bắc, còn “heo” là từ của người miền Nam.
Thực ra, người miền Nam cũng từng gọi “heo” là “lợn”. Từ Đàng Ngoài, người ta đem theo “lợn” vào Đàng Trong. Bằng chứng là Dictionarium Anamitico Latinum (1772-73) của Pierre Pigneaux de Béhaine, lấy tiếng Đàng Trong làm nền tảng, cũng đã ghi nhận cho ta mục “lợn” với 3 mục phụ: “giỏ da lợn”; “bánh da lợn” và “thịt lợn”. Đặc biệt, trong Đại Nam quấc âm tự vị, Huình-Tịnh Paulus Của còn ghi nhận danh ngữ “màu da lợn” với lời giảng “màu da heo, có nhiều sắc trắng đỏ xen lộn, cũng như lớp nạc, lớp mỡ”. Danh ngữ kép này cũng được tỉnh lược thành danh ngữ đơn “da lợn” để chỉ màu sắc và dáng vẻ, như trong “bánh da lợn” mà H.-T. Paulus Của giảng là “bánh làm giống cái da heo, phân ra trắng đỏ nhiều lớp”.
Đây là chuyện trong Nam nhưng ngoài Bắc thì vẫn có xài “heo” mà cái chứng cứ rõ rệt nhất là thành ngữ “nói toạc móng heo”, vốn không phải là sản phẩm của Đàng Trong. Vậy thì cả “lợn” lẫn “heo” đều xuất phát từ Đàng Ngoài và ta có thể ngược lên nguồn mà suy luận rằng, trước kia đã có một sự phân công – mà ta chưa biết được lý do – khiến cho “lợn” thì đi với “da” thành “da lợn” mà “heo” lại đi với “móng” thành “móng heo”. Và lưu dân đã đem “da lợn” từ Đàng Ngoài vào Đàng Trong rồi dùng danh ngữ này mà đặt tên cho một thứ bánh được làm ra là “bánh da lợn” – mà Đàng Ngoài không có – sau khi họ tiếp xúc với người Miền Dưới (tức Malaysia và Indonesia) về phương diện ẩm thực. Cái bánh này đã chết tên trước khi dân Đàng Trong thay “lợn” bằng “heo” theo xu hướng “dị hóa ngôn ngữ” với Đàng Ngoài kiểu thay “bát” bằng “chén”, “ô” bằng “dù”, “cốc” bằng “ly”, “khỏe” bằng “mạnh”, “ốm” bằng “đau”, “gầy” bằng “ốm”, “đun” bằng “nấu”, “là” bằng “ủi”, v.v…
(Theo học giả An Chi)